Danh mục
Trang chủ >> Khỏe Đẹp >> NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ NGỘ ĐỘC VITAMIN A

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ NGỘ ĐỘC VITAMIN A

1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (1 votes, average: 5,00 out of 5)
Loading...

Vitamin A là một thuật ngữ chung dùng để chỉ các hợp chất hòa tan trong chất béo được tìm thấy dưới dạng vitamin A được tạo sẵn (retinol) trong các sản phẩm động vật và dưới dạng tiền vitamin A carotenoid trong trái cây và rau quả. Ba dạng hoạt động của vitamin A trong cơ thể là retinol, retinal và axit retinoic.Cùng Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur tìm hiểu việc sử dụng quá liều vitamin A sẽ gây những hậu quả gì nhé!

  1. Những điều cần lưu ý về vitamin A

Theo Giảng viên Trường Cao đẳng Y Dược TPHCMVitamin A có liên quan đến việc điều chỉnh sự tăng trưởng và biệt hóa của hầu như tất cả các tế bào trong cơ thể con người. Vitamin A có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển phôi thai, hình thành cơ quan trong quá trình phát triển của thai nhi, chức năng miễn dịch bình thường, phát triển mắt và thị lực.

Thiếu vitamin A là nguyên nhân chính gây mù lòa có thể phòng ngừa được trên thế giới. Nó phổ biến nhất ở trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Thiếu vitamin A có liên quan đến việc tăng khả năng nhiễm trùng, cũng như rối loạn tuyến giáp và da.

Dự phòng bằng vitamin A dường như làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ em ở những vùng có nguy cơ thiếu vitamin A cao. Bên cạnh đó, việc bổ sung vitamin A liều cao được khuyến cáo rộng rãi cho trẻ trên 6 tháng tuổi mắc sởi trong tình trạng suy dinh dưỡng, suy giảm miễn dịch hoặc có nguy cơ biến chứng sởi. Axit retinoic và các chất tương tự được sử dụng ở liều dược lý trong điều trị bệnh bạch cầu cấp tính tiền tủy bào và các bệnh ngoài da khác nhau.

Các nguồn thực phẩm động vật giàu vitamin A được tạo sẵn bao gồm các sản phẩm từ sữa, gan và dầu cá; ngũ cốc tăng cường cũng có thể chứa vitamin A được tạo hình sẵn. Các nguồn carotenoid tiền vitamin A phong phú bao gồm các loại rau có màu cam và xanh, chẳng hạn như khoai lang và rau bina.

Tiêu thụ quá nhiều vitamin A được tạo hình sẵn có thể gây độc cao và đặc biệt là chống chỉ định trước và trong khi mang thai vì nó có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh nghiêm trọng.

Vitamin A là một thuật ngữ chung bao gồm một số hợp chất có liên quan

Retinol và retinyl este thường được gọi là vitamin A được tạo sẵn. Retinol có thể được cơ thể chuyển đổi thành retinal, chất này có thể bị oxy hóa lần lượt thành axit retinoic, dạng vitamin A được biết là có tác dụng điều hòa quá trình phiên mã gen.

Retinol, retinal, axit retinoic và các hợp chất liên quan được gọi là retinoid. β-Caroten và các caroten thực phẩm khác có thể được cơ thể chuyển đổi thành retinol được gọi là caroten tiền vitamin A. Hàng trăm loại carotenoid khác nhau được thực vật tổng hợp, nhưng chỉ khoảng 10% trong số chúng có khả năng chuyển đổi thành retinol

  1. Độc tính của vitamin A

Tình trạng gây ra bởi ngộ độc vitamin A được gọi là chứng thừa vitamin A. Nguyên nhân là do tiêu thụ quá nhiều vitamin A được tạo thành sẵn, không phải carotenoid.

Vitamin A được tạo sẵn được hấp thu nhanh chóng và từ từ đào thải ra khỏi cơ thể. Do đó, độc tính từ vitamin A được tạo sẵn có thể xảy ra cấp tính do tiếp xúc với liều cao trong một thời gian ngắn hoặc mãn tính do lượng hấp thụ thấp hơn nhiều.

Ngộ độc vitamin A cấp tính tương đối hiếm gặp và các triệu chứng bao gồm buồn nôn, nhức đầu, mệt mỏi, chán ăn, chóng mặt, khô da, bong vảy và phù não. Các dấu hiệu nhiễm độc mãn tính bao gồm da khô ngứa, bong vảy, chán ăn, sụt cân, nhức đầu, phù não, gan to, lách to, thiếu máu, đau nhức xương khớp.

Ngoài ra, các triệu chứng ngộ độc vitamin A ở trẻ sơ sinh bao gồm thóp phồng. Các trường hợp thừa vitamin A nghiêm trọng có thể dẫn đến tổn thương gan, xuất huyết và hôn mê.

  1. Vitamin A trong vấn đề an toàn trong thai kỳ

Mặc dù sự phát triển bình thường của bào thai đòi hỏi phải cung cấp đủ vitamin A, nhưng việc tiêu thụ quá nhiều vitamin A được tạo sẵn (chẳng hạn như retinol) trong thời kỳ đầu mang thai được biết là gây ra dị tật bẩm sinh. Không quan sát thấy sự gia tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh liên quan đến vitamin A ở liều vitamin A được tạo sẵn từ các chất bổ sung dưới 3.000 μg RAE/ngày (10.000 IU/ngày).

Đáng chú ý, vào năm 2011, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến nghị bổ sung vitamin A (tối đa 3.000 μg RAE/ngày hoặc 7.500 μg RAE/tuần) trong thời kỳ mang thai ở những khu vực có tỷ lệ thiếu vitamin A cao để ngăn ngừa mù lòa.

Ở các nước công nghiệp hóa, phụ nữ mang thai hoặc có khả năng mang thai nên theo dõi lượng vitamin A hấp thụ từ thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng và thực phẩm giàu vitamin A được tạo sẵn một cách tự nhiên (ví dụ: gan) và tránh dùng các chất bổ sung vitamin tổng hợp hàng ngày có chứa hơn 1.500 μg RAE (5.000 IU) vitamin A.

Không có bằng chứng cho thấy việc tiêu thụ vitamin A từ β-caroten có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh. Dẫn xuất tổng hợp của retinol, isotretinoin, được biết là gây dị tật bẩm sinh nghiêm trọng và không nên dùng trong khi mang thai hoặc nếu có khả năng mang thai. Tretinoin (axit all-trans-retinoic), một dẫn xuất retinol khác, được kê đơn dưới dạng thuốc bôi ngoài da. Mặc dù sự hấp thụ qua da của tretinoin tại chỗ là rất ít, nhưng việc sử dụng tretinoin trong thời kỳ mang thai không được khuyến khích.

  1. Uống nhiều vitamin A có làm tăng nguy cơ loãng xương không?

Theo giảng viên Cao đẳng Dược TPHCMKết quả từ một số nghiên cứu tiến cứu đã gợi ý rằng lượng vitamin A được tạo sẵn trong thời gian dài vượt quá 1.500 μg RAE/ngày (tương đương với 5.000 IU/ngày vitamin A dưới dạng retinol) có liên quan đến việc giảm mật độ khoáng của xương (BMD) và tăng nguy cơ gãy xương do loãng xương ở người lớn tuổi.

Tuy nhiên, các nhà điều tra khác đã không quan sát thấy những tác động bất lợi như vậy đối với BMD và/hoặc nguy cơ gãy xương. Phân tích tổng hợp gần đây của bốn nghiên cứu tiến cứu, bao gồm gần 183.000 người tham gia trên 40 tuổi, cho thấy rằng lượng retinol (vitamin A được tạo sẵn) ở nhóm cao nhất so với thấp nhất làm tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hông.

Chỉ có lượng retinol dư thừa, chứ không phải beta-carotene, mới có liên quan đến tác dụng phụ đối với sức khỏe của xương. Bên cạnh đó, phân tích tổng hợp của bốn nghiên cứu quan sát cũng chỉ ra rằng mối quan hệ hình chữ U giữa retinol lưu hành và nguy cơ gãy xương hông, cho thấy rằng cả nồng độ retinol trong máu tăng và giảm đều liên quan đến việc tăng nguy cơ gãy xương hông.

Sưu tầm Thạc sĩ Trần Thị Minh Tuyến

Có thể bạn quan tâm

Vai trò của kẽm và hướng dẫn bổ sung kẽm hợp lý

Kẽm là khoáng chất quan trọng cho sự phát triển của trẻ, hỗ trợ tổng …