Cây mè đất là loài cây mọc hoang phổ biến ở nhiều tỉnh thành trên khắp đất nước. Từ xa xưa, nó đã được biết đến với những công dụng chữa trị như giảm đau răng, trị ho có đờm, điều trị nấm, và ghẻ lở ngoài da.
Mô tả cây Mè đất
Theo Dược sĩ CKI Nguyễn Quốc Trung – giảng viên Cao đẳng Dược cho biết, Cây mè đất có tên khoa học là Leucas aspera, thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae).
Mè đất là loài cây thảo, sống hàng năm, cao từ 20 – 40 cm. Thân cây vuông, mọc thẳng, phần gốc có xu hướng hóa gỗ. Các cành cũng vuông và có lông, thường phân nhánh mạnh mẽ. Lá cây mọc đối hoặc không đối, phiến lá hình mũi mác, mép lá có khía răng cưa, cả hai mặt lá đều phủ lông.
Hoa của cây mọc thành cụm ở nách lá, có hình cầu với đường kính khoảng 1,5 – 2 cm, gồm nhiều hoa trắng. Lá bắc dài, có thể dài hơn đài hoa, đài hoa hình ống với nhiều răng. Tràng hoa có ống thẳng và một vòng lông phía trong, chia làm hai môi. Môi trên có lông, còn môi dưới dài hơn và chia làm ba thùy. Quả bế hình trứng, nhẵn và có cạnh màu nâu.
Cây ưa sáng, mọc nhanh và thường tạo thành quần thể trên các nương rẫy, ven rừng, hay đồi. Thân cây phân nhánh khỏe mạnh theo kiểu lưỡng phân, hầu như nhánh nào cũng có hoa ở đầu cành. Khi quả già, chúng tự mở để hạt rơi xuống đất và mọc thành cây con vào khoảng tháng 3 – 4 hàng năm. Mè đất mọc hoang khá phổ biến trên khắp các tỉnh thành, đặc biệt là ở các vùng núi.
Thời điểm thu hái cây là từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm.
Bộ phận dùng và cách bào chế cây Mè đất
Bộ phận dùng: Toàn cây.
Cách bào chế: Có thể sử dụng tươi hoặc khô. Nếu dùng khô, cần nhổ cả cây, rửa sạch đất cát, cắt nhỏ rồi phơi khô dưới bóng râm hoặc sấy ở nhiệt độ thấp cho đến khi khô. Sau khi sơ chế, dược liệu cần được bảo quản trong túi kín ở nơi khô mát để tránh ẩm mốc và mối mọt.
Công dụng và liều dùng
Giảng viên Trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho hay, Cây mè đất có vị đắng cay, tính ấm, có tác dụng chỉ khái, hóa đàm, khu phong giải biểu, và tiêu viêm.
Cây có tác dụng chữa ho, đau răng, viêm lợi, hỗ trợ điều trị viêm phế quản mãn tính, giúp phục hồi chức năng gan, và điều trị các bệnh lý ngoài da như ghẻ lở, mẩn đỏ. Thuốc lá đắp từ cây mè đất có thể dùng để điều trị vết thương, vết loét, ngứa, nhức đầu, và chóng mặt. Tại Sri Lanka, cây còn được sử dụng để chữa sốt nhẹ, chứng khó tiêu, và đau bụng do nhiễm giun.
Rễ và lá cây mè đất có tác dụng chữa bệnh ngoài da và ghẻ lở. Tại Malaysia, lá cây được dùng để làm thuốc an thần, lành vết thương, và tẩy giun sán. Tại Ấn Độ, cây được dùng chữa sốt, bò cạp và rắn cắn, trong khi lá và hoa chữa bệnh vàng da. Tại Thái Lan, lá, rễ, và hoa cây mè đất được dùng để cai sữa, giã nát và đắp vào đầu vú, đồng thời dùng làm lành vết thương và cầm máu.
-
Liều dùng: Dạng thuốc sắc, liều dùng thường từ 12 – 15 g/ngày.
Bài thuốc kinh nghiệm
- Viêm da cơ địa, tay chân nổi ghẻ: Dùng 100 gram cây mè đất (khô hoặc tươi), rửa sạch, đun sôi để lấy nước tắm hàng ngày. Cũng có thể dùng nước cốt cây mè đất bôi trực tiếp lên vùng da bị ghẻ hoặc viêm da cơ địa.
- Ho lâu ngày không khỏi: Cây mè đất và củ mạch môn mỗi vị 15 gram, sắc với 500 ml nước, cô đặc lại còn 200 ml. Chia làm hai phần sử dụng trong ngày, có thể thêm mật ong để dễ uống.
- Đau nhức răng, viêm lợi: Rửa sạch cây mè đất tươi (ngâm nước muối pha loãng nếu cần), giã nát, vo tròn và đặt vào vị trí răng bị đau từ 1 – 2 lần/ngày. Cũng có thể sắc cây mè đất khô để lấy nước súc miệng.
- Hỗ trợ phục hồi chức năng gan: Dùng 15 gram cây mè đất khô, hãm với nước sôi và sử dụng thay trà.
- Vết thương bị bầm tím, tụ máu: Dùng một nắm cây mè đất tươi, rửa sạch, giã nát rồi đắp lên vùng da bị tổn thương. Dùng băng cố định trong 15 phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Thực hiện mỗi ngày một lần để giảm đau và bầm tím.
- Viêm họng, viêm xoang: Cây mè đất và lá bồ công anh mỗi vị 20 gram, cam thảo 16 gram, lá xạ can 10 gram. Rửa sạch, sắc với nước đến khi còn một nửa lượng nước, chia thành 2 phần để sử dụng trong ngày. Dùng khi thuốc còn ấm.