Đại táo, hay còn gọi là Táo tàu, Táo đen, Hồng táo, với tên khoa học là Zizyphus jujuba Mill., là một loại quả quen thuộc, đồng thời là một vị thuốc có giá trị trong y học cổ truyền. Tên gọi khác của nó còn bao gồm Nhẫm táo, Thích táo, Ngưu đầu, Phác lạc tô, phản ánh sự đa dạng trong cách người dân bản địa nhận diện và gọi tên loại cây này.
Đặc điểm tự nhiên
Đại táo là cây thân nhỡ hoặc thân gỗ, có thể cao từ 8 đến 10 mét. Khi còn non, thân và cành có màu lục vàng, sau chuyển dần sang màu xám rồi nâu đỏ, thường có gai ngắn ở các mấu. Lá mọc so le, cuống ngắn khoảng 0.5 – 1cm, phiến lá hình trứng, đầu thuôn nhọn, dài 3 – 7cm, rộng 2 – 3.5cm, mép có răng cưa thô và nổi rõ ba gân chính cùng các gân phụ. Lá kèm thường biến thành gai.
Hoa của Đại táo mọc thành cụm dạng tán ở kẽ lá, mỗi tán chứa khoảng 7 – 8 hoa nhỏ. Cánh hoa có màu vàng xanh nhạt. Đài, tràng và nhị hoa đều có số lượng là 5.
Quả Đại táo có hình trứng hoặc hình bầu dục, dài khoảng 2 – 3.5cm, đường kính 1.5 – 2.5cm, phần gốc lõm và cuống ngắn. Vỏ quả ngoài mỏng, nhăn nheo, hơi bóng, có màu hồng tối. Lớp vỏ giữa xốp, mềm, có vị ngọt và chứa dầu, màu nâu nhạt hoặc vàng nâu. Bên trong cùng là một hạch cứng hình thoi, hai đầu nhọn, chứa 2 ô và các hạt nhỏ hình trứng. Quả có mùi thơm đặc trưng và vị ngọt. Mùa hoa thường vào tháng 4 – 5, và mùa quả là tháng 7 – 9.
Phân bố, thu hái và chế biến
Đại táo có nguồn gốc từ Trung Quốc, phát triển tốt ở vùng ôn đới ẩm, đặc biệt tại các tỉnh như Sơn Đông, Phúc Kiến, Hà Bắc, Hà Nam, Thiểm Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Cây cũng được tìm thấy ở Nhật Bản. Tại Việt Nam, cây Đại táo trồng ở SaPa sinh trưởng tốt và ra hoa vào tháng 5, tuy nhiên lại gặp khó khăn trong việc đậu quả, có lẽ do mùa hoa trùng với thời kỳ mưa. Ngược lại, một số cây trồng ở Lạng Sơn lại cho quả định kỳ.
Cây Đại táo có khả năng sinh chồi từ rễ, và các chồi này được dùng để nhân giống. Mặc dù đã được trồng tại Việt Nam, sản lượng và chất lượng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng làm thuốc, do đó dược liệu này chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc.
Quả chín được thu hoạch vào tháng 9, sau đó đem phơi hoặc sấy khô. Những quả mẫm, màu đỏ, vị ngọt và có hạch nhỏ thường được đánh giá là có chất lượng tốt. Bộ phận dùng làm thuốc chính là quả chín đã qua chế biến (phơi hoặc sấy khô).
Thành phần hóa học:
Quả Đại táo chứa nhiều thành phần có hoạt tính sinh học, bao gồm các vitamin (B2, A, C), triterpen (acid netulonic, acid oleanolic, acid betulinic…), flavonoid (kaempferol, myricetin), alcaloid (zizyphusin, spinosin…), nucleotid vòng (cAMP, cGMP), acid hữu cơ (malic, tartric), acid amin tự do và các nguyên tố vi lượng.
Hạt Đại táo chứa saponin (ziziphin, jujubosid A, B) và flavonoid (swertisin, spinosin…).
Công dụng dược lý
Trong Y học cổ truyền, Đại táo có tính cam, ôn, quy vào các kinh tỳ, vị, có tác dụng bổ trung, ích khí, dưỡng huyết, an thần, thường được dùng trị tỳ hư kém ăn, kém sức, hysteria, đại tiện phân lỏng.
Y học hiện đại đã chứng minh thịt quả Đại táo có tác dụng tăng trọng, tăng lực, bảo vệ gan và ảnh hưởng đến nồng độ cAMP trong tế bào. Nhân hạt Đại táo có tác dụng ức chế aldose reductase và an thần (nhờ spinosin).
Liều dùng và các bài thuốc kinh nghiệm
Liều dùng thông thường là 6 – 15g quả khô mỗi ngày. Đại táo thường được dùng trong nhiều đơn thuốc bổ tỳ vị, điều hòa khí huyết, nhuận phế, chữa ho với liều 5 – 10 quả mỗi ngày.
Một số bài thuốc Đông y sử dụng Đại táo bao gồm:
– Chữa sau sốt, cổ đau, miệng khô: Đại táo, Ô mai giã nát, thêm mật ngậm.
– Phụ nữ có thai đau bụng: Đại táo đốt thành than uống với nước.
– Trẻ con cam tẩu mã: Đại táo, Hoàng bá đốt thành than tán nhỏ sát răng.
– Bát trân thang (có Đại táo).
– Chữa bồn chồn mất ngủ: Đại táo, Hành trắng sắc uống.
– Bổ thận, an thai: Đại táo nấu cháo với gạo nếp và đỗ trọng.
Lưu ý khi sử dụng:
Cần kiêng kỵ sử dụng Đại táo cho người bị đau răng, đầy bụng, đờm nhiệt, trẻ em bị nhiệt cam, đau bụng do giun, người đau dạ dày do khí bế. Đại táo cũng tương kỵ với Bạch vi và Nguyên sâm.